Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
XIN VISA EB3 ĐỊNH CƯ MỸ- LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Tóm tắt: Anh Bùi Văn H. được Công Ty TCL. Quảng cáo về việc làm việc và định cư tại Mỹ theo diện EB3. Quá trình TCL. tư vấn, anh H. được biết diện EB3 không cần điều kiện bằng cấp, chỉ cần sức khoẻ ổn định, có thể bảo lãnh vợ và con dưới 18 tuổi đi cùng. Con qua đó học tập miễn phí cho tới năm 18 tuổi. Thấy trên website quy mô TCL. lớn, đội ngũ nhân sự hùng hậu, gồm các Luật sư, nhân viên tư vấn chuyên nghiệp. Qua việc tham gia các buổi hội thảo do TCL. tổ chức, anh H. cảm thấy tin tưởng, có rất nhiều người ký hợp đồng tại buổi hội thảo, thậm chí có nhiều trường hợp được giới thiệu đã xin visa EB3 thành công dễ dàng. Vì vậy, anh Hoà đã tin tưởng và ký hợp đồng EB3 trị giá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi đóng tiền và thanh toán tiền đầy đủ, tới ngày phỏng vấn (dù nhân viên TCL. hôm trước phỏng vấn đã báo phỏng vấn chỉ là thủ tục, đậu chắc) nhưng cuối cùng phỏng vấn visa không đậu. Không chỉ anh H. mà rất nhiều anh chị khác cũng gặp tình trạng tương tự. Vì vậy, tất cả cùng nhau liên hệ lại TCL. nhưng văn phòng thì chuyển chỗ, nhân viên không còn (chỉ trả lời qua email). Vì đã lỡ đóng tiền nên họ đành đợi vì trong group chung có một số người (không biết ngừoi phía TCL hay nạn nhân) cho rằng xin visa Mỹ rất lâu nên anh H. và mọi người đợi thêm. Nhưng càng đợi càng không có tin tức gì và linh tính nhiều điều bất ổn. Do vậy, Anh H. và một số người cùng hợp nhau lại đi tìm ban lãnh đạo TCL nhưng không được, họ vẫn đăng bài trên facebook, email vẫn trả lời nhưng tuyệt nhiên không gặp trực tiếp được. Nhận thấy bất thường, anh H. cùng một số anh chị đã gửi đơn cho công an trình báo, tuy nhiên công an đã trả hồ sơ vì cho rằng không có yếu tố hình sự, chán nản, anh H. cùng nhóm nạn nhân đã tìm đến phóng viên mong điều tra viết bài để cảnh giác những nạn nhân khác. Tuy nhiên… cuối cùng vụ việc cũng chìm xuồng. Sau đó nhóm anh H. vẫn không bỏ cuộc mà tìm tới Luật sư Huyền. Vậy Luật sư hình sự đã giải quyết vụ án như thế nào?
Tất cả thông tin đều mang tính thuyết phục, vì vậy không riêng gì anh Hoà, nhiều người khác còn bán nhà, bán đất nhanh nhanh lấy tiền đóng phí hợp đồng cho TCL.
Luật sư hiểu rằng vụ việc có dấu hiệu hình sự nhưng việc thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm gặp nhiều khó khăn vì đối tượng phạm tội có nhiều thủ đoạn tinh vi, lươn lẹo, am hiểu pháp luật để né tránh sự trừng phạt.
Do vậy, Luật sư đã tập hợp không chỉ hồ sơ của anh H. mà còn lắng nghe, đọc hồ sơ của nhiều nạn nhân khác để củng cố chứng cứ.
Bản chất, đối tượng phạm tội có kinh nghiệm làm việc (không phải vai trò Luật sư mà là Marketing) trong các công ty Luật nước ngoài nên rất am hiểu quy định cũng như tâm lý của khách hàng (nạn nhân) rất muốn định cư tại Mỹ, diện EB3 với các điều kiện đơn giản lại càng dễ tiếp cận đối tượng khách hàng. Việc của nhóm đối tượng là marketting để làm sao nạn nhân tin tưởng tuyệt đối, ký hợp đồng và giao tiền.
Dù có chiêu trò như thế nào đi chăng nữa thì nhóm đối tượng cũng để lại dấu vết.
Quá trình nghiên cứu và thẩm tra tài liệu, Luật sư nhận thấy khả năng lươn lẹo của nhóm đối tượng rất cao, thật thật- giả giả lẫn lộn, nếu đi chứng minh hết tất cả những thủ đoạn gian dối của nhóm đối tượng thì không đủ thời gian, nhân lực. Do vậy, Luật sư quyết định chỉ tập trung chứng minh những điểm gian dối chính, mang ý nghĩa trực diện giải quyết vụ án.
Đây là điểm mạo danh chính, là yếu tố gian dối chính khiến nạn nhân tin tưởng ký hợp đồng và giao tiền.
Sau khi thu thập đủ chứng cứ, Luật sư thiết lập hồ sơ tố cáo để chuyển cho công an điều tra.
Sau khi điều tra sơ bộ, công an ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Xem thêm: Quan điểm của LS Phùng Huyền đối với vấn đề Lừa đảo làm Visa giá rẻ.
Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có tính chất chiếm đoạt tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn trong việc định tội danh do dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những tội phạm này có điểm tương đồng. Do đó, việc phân biệt hai loại tội phạm này cần căn cứ vào chủ thể tội phạm; động cơ, mục đích của người phạm tội và điều kiện thực tế để đánh giá.
Giữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì dấu hiệu dễ bị nhầm lẫn nhất chính là thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Dưới đây là một số góc độ phân tích của luật sư.
Người tố giác tội phạm nhầm lẫn trong việc tố giác
Hiện nay, nhiều trường hợp người bị hại đến trình báo cơ quan Công an tố giác người phạm tội là lừa đảo, nhưng thực tế, người phạm tội chỉ có hành vi gian dối đối với người bị hại để giãn nợ hoặc có hành vi gian dối để vay được tiền, tài sản hoặc có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà mình đã vay, mượn của người bị hại trước đó. Vậy trường hợp nào thì coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt, còn trường hợp nào thì coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi “chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt thì rất phức tạp. Hiện nay có tình trạng vay, mượn trong nhân dân hoặc có những hợp đồng vay của ngân hàng với số tiền rất lớn lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, nhưng mỗi nơi xử lý một cách khác nhau. Có nơi coi đó chỉ là quan hệ dân sự hoặc quan hệ kinh tế, có nơi truy tố về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có nơi truy tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Về lý luận, chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch, đoạt lấy, chiếm lấy tài sản của người khác trái pháp luật, để nắm giữ, quản lý, sử dụng, định đoạt. Hành vi cố ý chiếm giữ tài sản của người khác với mục đích chuyển quyền sở hữu về tài sản từ của người khác sang của mình.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cứ chiếm giữ tài sản của người khác, bất kể vì mục đích gì cũng là chiếm đoạt như: Lén lút lấy xe ô tô của cơ quan đi chơi rồi lại mang về trả; nói dối người khác là mượn xe đưa mẹ đi cấp cứu nhưng lại dùng xe để chở hàng lậu bị Công an bắt hoặc sau khi đánh nhau, một bên phải bỏ lại xe để chạy thoát thân, dẫn đến bên “thắng cuộc” phải mang xe về vì sợ để lại ở hiện trường thì người khác sẽ lấy mất. Quan niệm này cũng đang tồn tại ở một số cơ quan tiến hành tố tụng.
Nếu căn cứ vào Bộ luật Dân sự, thì quyền sở hữu tài sản bao gồm 03 quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Chỉ người nào có đủ 03 quyền đó thì tài sản mới thực sự là của họ. Nếu một người chỉ có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản thì họ không phải là chủ sở hữu vì không có quyền định đoạt tài sản. Nói dễ hiểu thì mới có hành vi “chiếm” mà chưa “đoạt” thì không phải là chiếm đoạt. Vì vậy, chiếm đoạt là biến của người khác thành của mình.
Chỉ khi nào xác định có chiếm đoạt thì lúc đó mới là tội phạm. Nếu đã xác định có chiếm đoạt tài sản thì việc phân biệt giữa hai tội phạm này chính là thủ đoạn gian dối có trước hay sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản của người khác.
Nếu hành vi gian dối xảy ra trước khi vay, mượn rồi sau đó chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì phải coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn nếu hành vi gian dối xảy ra sau khi người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp thì chỉ coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cứ có hành vi gian dối trước khi có tài sản thì đều là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà phải xác định họ có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không. Ví dụ: A dùng giấy tờ nhà (bản photo có công chứng) để thế chấp cho B vay 500 triệu đồng. Sau đó B phát hiện trước đó A đã dùng giấy tờ nhà thế chấp cho một ngân hàng vay 1 tỉ đồng nên đã tố cáo hành vi của A với Cơ quan điều tra. Trường hợp này, người vay chỉ gian dối để vay được tiền chứ không phải để chiếm đoạt. Do đó, không thể định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với A.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015, thì hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là việc “người vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”. Vậy thế nào là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản? Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất lúng túng, nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn.
Đa số các chuyên gia cho rằng, “bỏ trốn” quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015 không nhất thiết phải là trốn khỏi địa phương, cũng không cần Cơ quan điều tra phải truy nã, mà chỉ trốn tránh chủ nợ như: Bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ biết… miễn sao tránh mặt được chủ nợ.
Đối với trường hợp vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Vấn đề sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp cũng có ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, chỉ cần xác định sử dụng tài sản đó vào mục đích không được pháp luật cho phép là bất hợp pháp như: Khi vay nói là để đầu tư nuôi tôm, nhưng lại đem trả nợ ngân hàng để không bị chịu lãi quá hạn hoặc đem tiền vay được sử dụng vào mục đích không đúng như lời hứa với chủ nợ là bất hợp pháp. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, cách hiểu bất hợp pháp như ý kiến trên là quá rộng và cũng không phù hợp với dấu hiệu “chiếm đoạt”, vì người phạm tội không có ý định chiếm đoạt, mà muốn dùng số tiền vay được trả nợ hoặc đầu tư, sản xuất rồi sẽ trả người cho vay. Nhưng nếu dùng số tiền vay được sử dụng vào mục đích phạm tội thì phải coi là bất hợp pháp như: Đánh bạc, buôn lậu, đưa hối lộ… dẫn đến không còn khả năng trả nợ.
Điều 175 BLHS năm 2015 còn quy định: “Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật đến nay chưa thấy trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về dấu hiệu trên. Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Nếu các khoản vay, mượn trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mà sau 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mới hết hạn, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, thì vẫn là quan hệ dân sự./.