(HQ Online) - Với tinh thần tích cực, chủ động, Việt Nam ngày càng gặt hái nhiều kết quả quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang thực thi và 2 FTA đang đàm phán đã đưa Việt Nam vào trung tâm của “dòng chảy” thương mại toàn cầu, trợ lực mạnh mẽ cho hoạt động XNK, giúp Việt Nam từng bước vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19, củng cố, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Cảng Chân Mây (Thừa Thiên Huế)
Cảng Chân Mây nằm ở vị trí thuận lợi có thể vận chuyển hàng hóa đến Singapore, Philippines và Hồng Kông. Chính vì vậy đây là cảng cửa ngõ kết nối khu vực Trung bộ ra cửa ngõ quốc tế.
BẾN CẢNG SỐ 1 - CẢNG CHÂN MÂY - CẢNG BIỂN THỪA THIÊN HUẾ
Cảng Đà Nẵng phục vụ nhu cầu kết nối, trung chuyển, vận chuyển hàng hóa trong nước với các nước nhưng Myanmar, Thái Lan, Lào. Cảng Đà Nẵng được trang bị một hệ thống tiên tiến có thể đắp ứng được các nhu cầu của các doanh nghiệp, công ty trong và ngoài nước.
Tên bến cảng tại cảng biển Đà Nẵng
Bến cảng Nhà máy đóng tàu Tổng công ty Sông Thu
Bến cảng chuyên dùng của Nhà máy xi măng Hải Vân
Bến cảng chuyên dùng Tổng kho sản phẩm dầu khí Đà Nẵng
Bến cảng Nhà máy đóng tàu Tổng công ty Sông Thu
Bến cảng chuyên dùng của Nhà máy xi măng Hải Vân
Bến cảng chuyên dùng Tổng kho sản phẩm dầu khí Đà Nẵng
Hi vọng với các thông tin chúng tôi vừa cung cấp bạn có thể hiểu rõ hơn về các cảng biển quốc tế tại Việt Nam. Đồng thời tìm cho mình được hệ thống cảng biến phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, công ty của bạn.
𝐀𝐋𝐒 – 𝐓𝐡𝐞 𝐋𝐞𝐚𝐝𝐢𝐧𝐠 𝐨𝐟 𝐀𝐯𝐢𝐚𝐭𝐢𝐨𝐧 𝐋𝐨𝐠𝐢𝐬𝐭𝐢𝐜𝐬 Email: [email protected]: 1900 3133Website: https://als.com.vn/Fanpage: https://www.facebook.com/als.com.vn
Cảng Dung Quất (Quảng Ngãi)
Cảng Dung Quất chủ yếu phục vụ nhu cầu vận chuyển, trung chuyển hàng hóa trong nước. Với 8 bến cảng, bao gồm 7 bến đã đi vào hoạt động và 1 bến đang trong quá trình xây dựng, hệ thống này đang đáp ứng được nhu cầu vận chuyển và giao thương trong khu vực.
Hệ thống cảng này có thể tiếp nhận nhiều loại tàu với tải trọng lớn, từ tàu chở hàng đến tàu chở dầu, từ tàu chở dầu thô đến tàu chở container. Sản lượng hàng hóa hàng năm của hệ thống Cảng Dung Quất đạt 18 - 20 triệu tấn, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực logistics và giao thương trong khu vực.
Bến xuất sản phẩm Nhà máy lọc dầu Dung Quất
Cảng Quy Nhơn (Bình Định)
Cảng Quy Nhơn nằm trong vịnh Quy Nhơn với vị trí thuận lợi cho phép tàu thuyền cập bến thuận tiện suốt các mùa trong năm. Chính vì vậy cảng Quy Nhơn được nhiều doanh nghiệp, chủ tàu trong và ngoài nước lựa chọn để thực hiện tiếp nhận và trung chuyển hàng hóa. Hiện nay cảng Quy Nhơn đã và đang cải thiện chất lượng dịch vụ để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng.
Tên bến cảng tại cảng biển Quy Nhơn
Cảng cái lân, Quảng Ninh nằm ở trung tâm kinh tế phía Bắc. Đây là cảng biển nước sâu lớn nhất Việt Nam. Với vị trí địa lý thuận lợi có thể thu hút các dự án xây dựng và kinh doanh dịch vụ cảng. Cảng Cái Lân được trang bị hệ thống đường biển, đường bộ tiên tiến giúp giảm tỷ lệ ảnh hưởng bởi thiên tai. Cảng Cái Lân đã và đang phát triển, mở rộng qua từng năm.
Đứng đầu bảng xếp hạng là cảng Yokohama (Nhật Bản), xếp thứ 2 là cảng King Abdullah (Saudi Arabia) và đứng thứ 3 là cảng Chiwan (Thâm Quyến, Trung Quốc).
Đặc biệt, trong top 50 cảng có tên 3 cảng của Việt Nam. Cụ thể, cảng Cái Lân (Quảng Ninh) đứng ở vị trí thứ 46, cảng Hải Phòng đứng ở vị trí số 47 và cảng Cái Mép (cảng Tân Cảng Cái Mép) đứng vị trí thứ 49.
Một trong những lý do quan trọng, giúp cảng Cái Lân có mặt ở vị trí thứ 46 là do năng suất xếp dỡ container của Cảng container quốc tế Cái Lân (CICT Cái Lân) - đơn vị hoạt động tại cảng Cái Lân ngày càng được cải thiện. Với 6 cẩu giàn, khu vực bãi lưu hàng rộng 14ha và được trang bị loại cẩu mép bến loại Post Panamax, CICT Cái Lân có năng suất xếp dỡ đạt từ 33 - 35 container/cẩu/giờ, có thời điểm lên đến 40 container/cẩu/giờ. Thời gian giải phóng tàu 5.000 TEU chỉ mất hơn một ngày.
Cảng Vân Phong (Khánh Hòa)
Cảng Vân Phong khánh Hòa được hy vọng trở thành một trong những cảng biển lớn nhất tại Việt Nam bởi số lượng hàng hóa tiếp nhận tàu chở hàng rất lớn. cảng Vân Phong có đầy đủ hệ thống máy móc, vị trí thuận lợi để có thể trở thành cảng trung chuyển quốc tế lớn nhất.
Hiện nay Việt Nam có bao nhiêu thành phần kinh tế ?
Căn cứ theo quy định Điều 51 Hiến Pháp 2013 có quy định như sau:
Như vậy, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Hiện nay Việt Nam có 04 thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong đó, với mỗi thành phần kinh tế có vai trò khác nhau và hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau giúp nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển.
Hiện nay Việt Nam có bao nhiêu thành phần kinh tế? (Hình từ Internet)
Cảng Sài Gòn - Cảng biển lớn nhất Việt Nam
Cảng Sài Gòn đóng một vai trò quan trọng chủ chốt trong ngành xuất khẩu, nhập khẩu của miền Nam Việt Nam. Cảng Sài Gòn bao gồm: Tân Cảng, Cát Lái, Cái Mép, Hiệp Phước. chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng nền kinh tế của khu vực Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc, bị ảnh hưởng khá lớn bởi hoạt động của cảng Sài Gòn.
Cảng Cửa Lò, Nghệ an là cảng nằm trong khu vực Bắc Trung bộ. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, công ty trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp, công ty ở khu vực Bắc Trung bộ. Ngoài ra Cửa Lò còn phục vụ cho nhu cầu xuất nhập khẩu của các đơn hàng đến từ lào và Đông Bắc Thái Lan.
Các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 như thế nào?
Theo Mục 2 Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13, các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 bao gồm:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm.
- Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD.
- Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%.
- Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm.
- Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
- Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%.
- Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%.
- Tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân;
- Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi;
- Tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
- Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%.
- Tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%.
- Tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%.
- Tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
%PDF-1.4 %âãÏÓ 115 0 obj <> endobj xref 115 120 0000000016 00000 n 0000003582 00000 n 0000003759 00000 n 0000006068 00000 n 0000006206 00000 n 0000006353 00000 n 0000006495 00000 n 0000006707 00000 n 0000006869 00000 n 0000006983 00000 n 0000007330 00000 n 0000007357 00000 n 0000008092 00000 n 0000008119 00000 n 0000009059 00000 n 0000009308 00000 n 0000010198 00000 n 0000011026 00000 n 0000011165 00000 n 0000011300 00000 n 0000011442 00000 n 0000011583 00000 n 0000011766 00000 n 0000011945 00000 n 0000012057 00000 n 0000012918 00000 n 0000013850 00000 n 0000013999 00000 n 0000014676 00000 n 0000014703 00000 n 0000015456 00000 n 0000016288 00000 n 0000017033 00000 n 0000017681 00000 n 0000018232 00000 n 0000018302 00000 n 0000018434 00000 n 0000065389 00000 n 0000065672 00000 n 0000066724 00000 n 0000066794 00000 n 0000066921 00000 n 0000102528 00000 n 0000102817 00000 n 0000103546 00000 n 0000120924 00000 n 0000120994 00000 n 0000121091 00000 n 0000121182 00000 n 0000126701 00000 n 0000126981 00000 n 0000127213 00000 n 0000127283 00000 n 0000127369 00000 n 0000130927 00000 n 0000131200 00000 n 0000131381 00000 n 0000131451 00000 n 0000131545 00000 n 0000137240 00000 n 0000137525 00000 n 0000137764 00000 n 0000137791 00000 n 0000138174 00000 n 0000138309 00000 n 0000138336 00000 n 0000138600 00000 n 0000138741 00000 n 0000138768 00000 n 0000139124 00000 n 0000139264 00000 n 0000139291 00000 n 0000139593 00000 n 0000139735 00000 n 0000139805 00000 n 0000140081 00000 n 0000140151 00000 n 0000140270 00000 n 0000169918 00000 n 0000170211 00000 n 0000170842 00000 n 0000176394 00000 n 0000176747 00000 n 0000176817 00000 n 0000176920 00000 n 0000183283 00000 n 0000183560 00000 n 0000183902 00000 n 0000183929 00000 n 0000184379 00000 n 0000184449 00000 n 0000184545 00000 n 0000189111 00000 n 0000189387 00000 n 0000189645 00000 n 0000189672 00000 n 0000190046 00000 n 0000190116 00000 n 0000190220 00000 n 0000196796 00000 n 0000197068 00000 n 0000197418 00000 n 0000197445 00000 n 0000197895 00000 n 0000197922 00000 n 0000198220 00000 n 0000198290 00000 n 0000198398 00000 n 0000205743 00000 n 0000206022 00000 n 0000206369 00000 n 0000206396 00000 n 0000206850 00000 n 0000210979 00000 n 0000211241 00000 n 0000211545 00000 n 0000215709 00000 n 0000215967 00000 n 0000003410 00000 n 0000002751 00000 n trailer <]/Prev 299223/XRefStm 3410>> startxref 0 %%EOF 234 0 obj <>stream hÞb```b`à‘a`g`�+bb@ ! Ç0—ùøë%Ö=Œ[MX00ØÌï»»»ìííƒÔ¬l,<ì\ÜÌLœ5ŠJÊ*ªjêšZÚ:~öîºzú†FÆ&¦fæ–V e%Uuõµ ¥å•ÕHÚäдYÛØ‚uÚù;€ô)8:9Y™˜º¸ºã±¾¢¬ hÈN…êÚ3sSK+ mô¶� ¨�¨‘DÛ¤€Z$98™$€ÚEk€º@ú=½¼}|1U,ÈZ#°µjæ�QRRRq©èÀ€ ±Ë‚4‡†ãÔÆâ‚[›’:NmÌƸµ1°ãÔæ8<Ñ�™¦Á Ÿ%ÇH— qX¿ƒ Çk††J Ø.††FGF¦£ŒÌ“î3'0+12äåŠæ2Ìdcvfîb¨fꪹάÆtž)�‰—A‡!k{ ##�•Úõ—‘�i¿ó Û�ÁQ´”áÃ9 Û†÷Ãw†Ù@–‹˜*#3ÃUFÆT ÉŒï€f32z1I M:¿€8¶x#7S¬è4Fw ÏWâ ÃoF Š@ž›à š@^�ç'9�á£XŽ‘Q ($3�á/ÈŒkØÞ0Š h1¼`û7‹Ñ“1…!ŸÑ X:„3 }Î ôá\l¹V‘�¥µ™\Š08±Ky(m00ðiÃU©2°L�‡ˆ2l0 óî endstream endobj 233 0 obj <>/Filter/FlateDecode/Index[38 77]/Length 22/Size 115/Type/XRef/W[1 1 1]>>stream hÞbbR``b``ÅÄc€ ´† endstream endobj 116 0 obj <>/Metadata 36 0 R/PageLabels 33 0 R/Pages 35 0 R/StructTreeRoot 38 0 R/Type/Catalog/ViewerPreferences<>>> endobj 117 0 obj >/PageTransformationMatrixList<0[1.0 0.0 0.0 1.0 0.0 -403.937]>>/PageUIDList<0 241546>>/PageWidthList<0 581.102>>>>>>/Resources<>/ExtGState<>/Font<>/ProcSet[/PDF/Text]/XObject<>>>/Rotate 0/StructParents 0/TrimBox[0.0 0.0 581.102 807.874]/Type/Page>> endobj 118 0 obj <> endobj 119 0 obj <> endobj 120 0 obj <> endobj 121 0 obj <> endobj 122 0 obj [/Separation/All/DeviceCMYK<>] endobj 123 0 obj <> endobj 124 0 obj <>stream H‰\‘ÛjÄ †ï}Š¹Ü½XÌa�eK!=д�è$+4FŒ¹ÈÛw&.[¨ ~2þúû+¯ÕseM ùáGUc€ÎXíqg¯Zì�iÚ¨p_£'$‰ëe 8T¶EQ€ü¤âü›'=¶¸òÝkôÆö°ù¾Ö[�õìÜh$P– ±£ƒ^÷Ör•í*Mu–iþv|-![×i4£F�“kúÆö(Š„Z ŵR Õÿêé]ÖvêÖxQä¼9Ih"N#§ÌYäŒ9�œ3ï#ÌÇÈGæSäó9ò™ùùR²Í,ÞLÛ¼ûaÔ+<ÒP³÷Äþš ¿ÝX|ü��Š»ø` j†Ã endstream endobj 125 0 obj [158 0 R] endobj 126 0 obj <>stream H‰\•ÍŠÛ0…÷y -gƒ-ë/�°%²èMû [™Ç8™EÞ¾Ž¾a 5$áãJ÷ÜsPäÂïÃ~n¢ø>_ºCº‰Ó0ösº^Þç.‰×ô6Œ+Y‰~èn”¿»óqZËæÃýzKçýxº¬¶[QüXŠ×Û|OuyMÏ«âÛܧyßÄÓ/xÅá}šþ¤so¢»�èÓiiôå8}=ž“(ò¶—}¿Ô‡ÛýeÙóoÅÏû”D•Y2LwéÓu:vi>Žoiµ-—g'¶íòìViìÿ«oÖl{=u¿�ó²\–Õ²<ÿäÍêAeUîrm�k²¤ÖRó™d HB¢‹bŸÔ�„„ž´�‚¤¡ Õ™*ºhºTtÑt©è¢éRÑEÓ¥ZCÚ@ª!5ÐòЊP‘„& Eš$Ih’PÔBäbÈEáÈàHáÈàHáÈàHáÈàHáÈàHáÈàHáÈàH£`QÐ(X4 �‚EA£`QÐô´=IÉ’’&%KJš”,)iR²¤dHÉ’’!%KJ†”,)Rr¤dðàð`ðàð`ðàð`ðàð`ðàð`HÉ‘’Á‘ÑÁƒÃƒeeDϲ22‹Å{Ìê’µ„òi• +sF¼;z¶ÌéèÙÒ¥~L-c 5„‡šÉ|î©›’š‡*ˆ›GU)7Ôê\k²[íYÙDHA-¤3¡PzòôL–i©‘µ'O�[Ïœ^CèyÒõ¤äµ†šƒ"ÄÚsBÞ3-5NOà„f ÌH"ˆY‚‡ÖP€H" j…�t$ùˆzÄC$³ÈÊÈÊ–# ¶ÌÒ2KË,-ç¥m¹1e¾|?nÙÇ5¼¼-Äçß½Ïór½çWJ¾×7ú0¦Ï·Ît™Ä²ëñYý` <~¾ endstream endobj 127 0 obj [153 0 R] endobj 128 0 obj <>stream H‰\–ÍNã0E÷}Š,a�ÇŸm�ªJñŸÔÅüh˜y€Ò¦Ò�ViYðö“úD̈J€®ûž{c/Ã&n†Ã¥Y~�»ÇrižÃ~,çãÛ¸+ÍSy9Õ5ûÃî2«ú{÷º=-–ÓäÇ÷ó¥¼n†çãbµj–?¦Áóe|onúýñ©Ü.–ßÆ}ÃKsó+<Þ6ËÇ·ÓéOy-Ã¥i›õºÙ—çi¡/ÛÓ×íki–uÚÝf?�.ïwÓœOü|?•¦«Z³;îËù´Ý•q;¼”Ū�>ëf•§ÏzQ†ý§qÕ¶Ì{zÞýÞŽõy==߶]»ž”B]ÿTu_•ªcmëyòP¨„ò¨Œ U©Q •P*£`Ñø)A)”Au(‹Ò(‡Ô=Ê PEMEMQ=ŠDšD,K‹ÀÒÁ"°t°,,K‹ÀÒõ(‡‚L ë È:Xdf¡]¡]M»B»šv…v5í íjÚ5´«IdH¤IdH¤IdH¤IdH¤IdH¤IdH¤IdH¤IdH¤i×ЮànqÜ-î‚»Å]p·¸îwÁÝâ.¸[Üw‹»Ð§¥O�ÅÎ,´kiWh×Ò®¡]K»†v-íÚµ´kh×Ñ®!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿ!Ÿ#Ÿe•‹e•§e•TÉ¥úùIVIš±ª”gž£—„Ÿ£—‹£—„»£‰DƒŽ&í:È2M8È2-9È2½8X2½8ÞXžxc¹²HuP‰Ò;ú{” P¬Ù_ýºëa®cž±ÚµêÉÞÍ‘±Ye»Ç«ºŠÂ¯ªiŒì^3ê7óü ,òéYêcÓ$¶•&E$œçyË ž¨~¶&œ7(âx‡"€ŸçÀ× @öøX|FáplãÀÖ ¸^e`ó¤XBeQ¡¾fÅQ” Y€,@æ1Èd² Y„,@!‹øEX"MDÜ#MDü"~¿ˆ_Ä/â—ð‹ø%übõSIªbãJÂ�& ÷ùØ$Ü›,Í[|^–K‚…#% –K†…C$–DöŒ{Æ=ã—Y3ãÀÑhs=(júüß¼^¦»LóqÙ½�ãtù¨žzë¸Þ7Cù¸�Ž§fšuýYü` ^œ ` endstream endobj 129 0 obj <> endobj 130 0 obj <>stream H‰”VÛjÜ0}÷Wè1yˆ<ºK°,ø².- m‰ûTJKÚ’„6)¥ßÑŶìÝ-ɮČ4sæèÌ$eõëåÛÝíþ…l6å{R^Þþ}úýB¶ÛºmHQ÷�ðCùQ”o®�Ü?eßa¤¿+xt㢘¦BhE„¢Z Cú‡â̸óþ{±ë‹ÝFû‰ÁîñÓ_–Ý�ö©øX”|âËÛÇ{röõñâÓõyyÕ¼m1f�! ƒ6„Ðð›”(àº'qó‡ˆc¨ÑRm5UZIæó€× NáÚ €À_mFâ^$›ß[<Çѧ“Í Xžö÷ì?gEŒië¿Ú2 ‚l¼{û¥7òqªv–Õ>ÕÄARãÑrQæuˆ�Ë Ÿ¯Ïªˆ{¬S†-@‡x^�†EÔ¤BA4Lp<ÌXAÌÊ�ö,$æ:YlBeTB…_÷̯گÛL9§°‰[Ù 8÷ÏÈyÞ?¡°$¯ð aŒ*Jˆ;#¨Y‚H(éR�²’�YW•deÇ"‚¿‘kÀÊX~Ã#ºS˜¸5”i¡2íʶ̞î‚NµG…H$:k\•X:±…[äVê¥Ó`´ƒX`£^F `ª¦Z� aiô‘|=Ê,O«èX©O•ÑºäRiªw„clÃ5¸Lˆ#e,æ—GÌ&Úwf¢r°{œ¾J]�”Ïïét·>¼§°$Ý⧞3”çÌßv¼{äiGß‘'AŸ]>lfÅ'ü+éÕkèU–rkõ@¯4¡ÙÔ½\%’ARVÊк¨2sr’ϸ(”™/”¤§[ù ?Çü&¿á»ÖçVaÎ�adã&š‡XƒTªú0�Wj•h]I§YC§Ô*ÆGµºXJè Ô mÚ‰Eà ÎA‹µÈÚupv]ÛÒ�m:);rw $êTçÆ@ÒòÀ|vŒa«¨ú ˆƒœÑê\ɯ]Ã/wT2as~—Tâ?2M)0õÔ™£=ëê;~w˜‰ƒØG»Š÷Æ)ÒÍü²u‹ÃÿhM7Ÿ<3ŸYàK3Y»©Øc‹Lí³†^·†^&©3ZxzÉ? j�(c endstream endobj 131 0 obj <>stream H‰ŒVÉj1½ÏWô19L»Jk†�Q/�CÀ““ñÁ‡�S|ÈÿR’Zk÷˜ÆzR-¯^•úõ°, n@j à×3‚éEG€Dj1-@?2(€ÑR·æG:M›r 5hæ-Õ‡™SÑçÒ€(iñõ?- +ØZàdAˆà¦ÄL‹c›Žö€˜dH„ÈßîßOóý4?�Ýéégw¹<ýxÿøÓ}ùýqþõòõéyü6uÝõj':aï'Ä^²è/ü’ªW†™Žòì%Lwÿ{z½¬>lÍ-ƒ¡WÝéл¤/Ín|nb´;·=ùŽh gJ›fsYVS2ó˜"ô
Tóm tắt: Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể. Từ quan niệm về bẫy thu nhập trung bình, bài viết chỉ ra các nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam và đưa ra một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ khóa: Bẫy thu nhập trung bình; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; năng suất lao động.
OVERCOMING THE MIDDLE-INCOME TRAP: A LOOK FROM THE VIETNAM ECONOMY SITUATION TODAY
Abstract: Recently, Vietnam has achieved important achievements in the transition from a low-income country to a middle-income country. However, the internal difficulties and external challenges of the economy make the risk of Vietnam falling into the middle-income trap possible. Based on the concept of the middle-income trap, the article points out the risks of falling into the middle-income trap in Vietnam and offers some policy implications for Vietnam to overcome the middle-income trap. Keywords: Middle income trap; economic restructuring; labor productivity. 1. Đặt vấn đề Khái niệm bẫy thu nhập trung bình trong những năm gần đây đã trở nên quen thuộc với các nhà phân tích và các chuyên gia kinh tế. Đây được xem là “tấm trần thủy tinh” vô hình ngăn cản nhiều quốc gia trên thế giới vươn tới mức thu nhập cao. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính xác về bẫy thu nhập trung bình. Hầu hết các khái niệm đề cập đến bẫy thu nhập trung bình đều dưới dạng mô tả những điểm đặc trưng của các nước được cho là đang rơi vào bẫy. Theo thuật ngữ kinh tế, bẫy thu nhập trung bình là khái niệm chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển. Bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập trung bình đã đạt được nhờ khai thác tài nguyên và những lợi thế nhất định ban đầu như lao động giá rẻ, mà không được vượt qua được ngưỡng đó để đưa thu nhập lên mức cao hơn1. Theo cách xếp loại của Ngân hàng Thế giới (tính từ ngày 01/7/2012), một nước được coi là thu nhập thấp nếu tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người/năm đạt thấp hơn hoặc bằng 1.025 USD, nước có thu nhập trung bình thấp nếu GNI bình quân dao động từ 1.026 USD - 4.035 USD, nước có thu nhập trung bình cao nếu GNI bình quân rơi vào khoảng 4.036 USD - 12.475 USD và thu nhập cao nếu GNI bình quân ở mức trên 12.476 USD. Như vậy, theo cách hiểu này, nước có thu nhập trung bình là các quốc gia có GNI bình quân đầu người vào khoảng từ 1.026 USD đến 12.475 USD. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 101,9 triệu đồng/người, tương đương khoảng 4.284 USD, tốc độ tăng trưởng đạt 5,05%. Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Kinh tế vĩ mô cơ bản giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn, kinh tế trong nước tiếp tục xu hướng phục hồi. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại những nút thắt, đó là chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, các cân đối vĩ mô chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu… Vì vậy, Việt Nam vẫn có thể vướng bẫy thu nhập trung bình. 2. Nhận diện các nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình Một là, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chưa được như kỳ vọng. Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, do chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thế giới, nên thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng chậm. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425 USD; sau đó, tăng lên 3.526 USD vào năm 2020; năm 2021 là 3.694 USD; năm 2022 là 4.120 USD; đến năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Có thể nói, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua đang đặt ra một số thách thức về khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực. Gần 40 năm qua, nền kinh tế Việt Nam trải qua ba đợt khủng hoảng vào các năm 1997 - 1999; 2008 - 2011 và 2020 - 2021. Sau mỗi kỳ khủng hoảng, kinh tế nước ta có xu hướng tăng trưởng chậm lại. Cụ thể như, tăng trưởng kinh tế bình quân cả nước thời kỳ 1991 - 2000 khoảng 7,6%; thời kỳ 2000 - 2010 khoảng 6,6% và thời kỳ 2011 - 2020 là khoảng 6%. Chính tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và kéo dài trong nhiều năm là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang chững lại. Hai là, đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) chiếm tỉ lệ thấp. Mặc dù tăng liên tục qua các năm, tốc độ tăng TFP của Việt Nam còn khiêm tốn và chưa có đột phá. Giai đoạn 2011 - 2020, TFP tăng bình quân 2,51%/năm, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 tăng 2,15%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 tăng 3,37%/năm; năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên TFP chỉ tăng 0,96%. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, TFP của Việt Nam tăng 2,88%/năm2. Tuy nhiên, sự gia tăng của năng suất các yếu tố tổng hợp không phải do sự phát triển vượt trội hơn của chính yếu tố này mà là do có sự suy giảm về quy mô ở mức cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng theo dự kiến. Sự đóng góp còn khiêm tốn của yếu tố TFP đã cho thấy, tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua vẫn được thực hiện theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng cũng nghiêng về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Nếu tình trạng này còn kéo dài sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không bền vững. Mặt khác, hiệu quả và năng suất đầu tư công của Việt Nam còn thấp. Chúng ta biết rằng, đầu tư công ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua: (i) Hiệu quả, tức là một lượng đầu tư công nhất định mang lại bao nhiêu về cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế; (ii) Năng suất, tức cơ sở hạ tầng vật chất được tạo ra tác động lan tỏa đến nền kinh tế như thế nào. Ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, tỉ lệ đầu tư công khoảng 7% GDP (năm 2018). Đầu tư công ở các nền kinh tế mới nổi thường dao động từ 5 - 7% GDP. Tại Việt Nam, năm 2023, đầu tư công chiếm khoảng 6,8% GDP, tương đương các nền kinh tế mới nổi3. Như vậy, hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam cao hơn một chút so với các nền kinh tế đang phát triển thu nhập thấp và thấp hơn các nền kinh tế mới nổi. Còn về năng suất đầu tư công, Việt Nam nằm giữa nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi và các nước phát triển. Ba là, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Trong hai thập kỷ gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao năng suất lao động, nhờ đó năng suất lao động đã có những cải thiện đáng kể cả về giá trị và tốc độ. Mặc dù năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 tăng bình quân 5,4%/năm, nhưng vẫn ở mức thấp trong khối ASEAN. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong cùng khu vực, sự chênh lệch năng suất lao động của Việt Nam càng trở nên rõ nét. Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia (gấp 2,4 lần); Myanmar (1,6 lần); Lào (1,2 lần). Để bắt kịp năng suất lao động và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tăng trưởng năng suất lao động liên tục với tốc độ 6,3 - 7,3%/năm. Gần đây, năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo đó, so với năm liền kề trước, năng suất lao động năm 2018 tăng 5,55% và năm 2019 tăng 6,28%; năm 2020 tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2015. Năm 2023, năng suất lao động của toàn nền kinh tế ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022)4. Mức tăng toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015. Tuy vậy, mức tăng này là chưa đủ để giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Mặt khác, vẫn còn khoảng cách về năng suất lao động giữa các ngành kinh tế ở Việt Nam. Năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp cao hơn nhóm ngành dịch vụ và gấp khoảng 3 - 3,5 lần năng suất lao động ngành nông nghiệp. Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Dù Việt Nam đã có những bước chuyển tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cụ thể trong giai đoạn 2010 - 2022, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm từ 15,38% xuống 11,88%; tỉ trọng dịch vụ tăng từ 40,63% lên 41,33%; tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 33,02% lên mức 38,26%5. Động lực chính của quá trình chuyển đổi là từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chứ không phải các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước tuy có sự cải thiện trong đóng góp vào kim ngạch xuất, nhập khẩu, nhưng lại kém cạnh tranh trong việc tác động vào cán cân thương mại. Năm 2023, cơ cấu nền kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 11,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,12%; khu vực dịch vụ chiếm 42,54%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,38% (cơ cấu tương ứng của năm 2022 là 11,96%; 38,17%; 41,32%; 8,55%)6. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Song song đó, hiệu quả đầu tư của Việt Nam thấp thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn tiếp tục tăng và ở mức cao. Chỉ số ICOR giai đoạn 2010 - 2019 đạt 5,9, các năm 2020 - 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) tăng vọt lên mức 12,47 và 15,51. Tuy nhiên, trong năm 2022, khi dịch bệnh đã được kiểm soát thì chỉ số này quay về mức 5,92, tương đương với giai đoạn trước đại dịch. Khi so sánh với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số ICOR của Việt Nam ở mức tương đối cao. Năm là, năng lực cạnh tranh của quốc gia vẫn ở mức thấp. Trong những năm qua, Việt Nam không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh cải cách hành chính… Tuy nhiên, thực tế vận hành của nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế như việc can thiệp vào cơ chế giá thị trường; khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lớn; hệ thống văn bản pháp luật chồng chéo, tồn tại nhiều bất cập, một bộ phận cán bộ còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong giải quyết công việc, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn còn xảy ra… Trong khi đó, Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) và Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam đang bị giảm so với các nước cùng mức thu nhập. 3. Một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; hoàn thiện thể chế tài chính doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp nhằm phục vụ quá trình sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, thực hiện phân bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường và theo các định hướng về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường theo hướng hiện đại, nhất là thị trường chứng khoán, lao động, khoa học và công nghệ. Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thứ hai, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp để tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp tổng thể phù hợp với mô hình và bước đi về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lại sản xuất theo hướng tăng hàm lượng khoa học và công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, lợi thế cạnh tranh. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ có nhu cầu lớn như dệt may, giày dép và linh kiện điện tử. Đồng thời, hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như ngân hàng, bảo hiểm, logistics và các dịch vụ khác. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin… Thứ ba, đẩy mạnh tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lí. Tập trung đẩy mạnh thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, góp phần tháo gỡ các vấn đề tài chính cho doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng nói riêng trong quá trình tái cơ cấu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác xử lí những tồn tại về tài sản, tài chính, công nợ, xử lí lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân định quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp. Thứ tư, ưu tiên nguồn lực đầu tư công để đầu tư các công trình quan trọng, thiết yếu, đáp ứng yêu cầu phát triển và đảm bảo kết nối các trung tâm kinh tế lớn, các đầu mối giao thông quan trọng. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng… Đồng thời, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực theo hướng đổi mới cơ cấu và phương thức đầu tư cho giáo dục và đào tạo; đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ… Tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất, phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lí vĩ mô. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, thực hiện phối hợp hiệu quả trong quản lí kinh tế vĩ mô; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội, công tác kế toán, thống kê, giám sát, quản lí rủi ro và bảo đảm an toàn về nợ công và nợ nước ngoài quốc gia. Đồng thời, cần chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng bền vững, ổn định giá trị đồng tiền. Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường; tăng cường hạ tầng tài chính bao gồm mở rộng và đào sâu dữ liệu tín dụng của người vay; giải quyết các thách thức về năng lực tài chính và bảo vệ người tiêu dùng và bảo mật dữ liệu. Tập trung xử lí nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. 4. Kết luận Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP chưa được như kỳ vọng, năng suất lao động còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia còn hạn chế…; tuy nhiên, hai điểm quan trọng đã khẳng định Việt Nam chưa rơi vào bẫy thu nhập trung bình là: Việt Nam vừa đang bước vào ngưỡng nhóm các nước có thu nhập trung bình cao và Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi phương thức phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm ổn định vĩ mô nền kinh tế. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình một cách có hiệu quả, Việt Nam cần khơi thông các nguồn lực phát triển cho nền kinh tế, quan tâm đến những động lực tăng trưởng dài hạn, đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số để tạo giá trị gia tăng và động lực tăng trưởng.
1 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015, tr. 6. 2 Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030, https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 3 Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023, tr. 9. 4 Tổng cục Thống kê (2023), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023”, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023. 5 Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 47 6 Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô ổn định, https://www.mpi.gov.vn, cập nhật ngày 31/01/2024.
Tài liệu tham khảo: 1. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023. 2. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Minh Tâm (2014), Việt Nam chủ động vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Tạp chí Cộng sản (Chuyên san Hồ sơ sự kiện), ngày 25/11/2014. 3. Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030, https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015. 6. Tổng cục Thống kê (2023), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023.
Khi tham gia tổ chức Thương mại Thế giới, kinh tế Việt Nam đã dần thay đổi, phát triển vượt bậc, sánh ngang tầm quốc tế. Chúng ta biết rằng nền kinh tế hàng hải là một thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam bởi hệ thống cảng biển trải dài khắp cả nước.
Bài viết dưới đây cung cấp các kiến thức vì cảng biển quốc tế ở Việt Nam đặc biệt là vai trò của cảng biển quốc tế và các dịch vụ cảng biển quốc tế.